Thủ môn quét – khi sự hiệu quả đi kèm với rủi ro

Thủ môn quét là xu thế của bóng đá thế giới những năm gần đây. Việc sử dụng một thủ môn chơi chân tốt dường như đem tới quá nhiều lợi ích, nhưng bên cạnh đó, là việc những rủi ro trở nên thường trực hơn trước khung thành đội nhà.

1992 là một năm đặc biệt của bóng đá, nhất là với các thủ môn. Đó là năm mà một điều luật mới được ban hành, quy định thủ môn sẽ không còn có quyền dùng tay để bắt lấy quả bóng từ một đường chuyền bằng chân của đồng đội. Nghĩa là giờ đây, bên cạnh đôi tay, những người gác đền sẽ bắt đầu sử dụng đôi chân của mình để kiểm soát bóng.

Hơn 30 năm sau, điều luật đó đã giúp cho một vị trí trở nên thịnh hành trong bóng đá hiện đại – những thủ môn quét. Một thủ môn giờ đòi hỏi cần phải tham gia nhiều hơn vào lối chơi của đội nhà. Anh ta phải biết lao ra khỏi vòng cấm để ngăn tiền đạo tiếp cận gần khung thành đội nhà, phải biết giữ bóng trong chân để chờ hậu vệ lùi về phối hợp, anh ta còn cần phải lập tức phát động phản công khi có cơ hội. Khi chiến thuật ngày càng phát triển đến mức bão hòa, việc có thêm thủ môn như cầu thủ thứ 11 trên sân sẽ giúp ích rất nhiều cho việc triển khai lối chơi, đặc biệt là với những đội chơi tấn công.

Nói về đỉnh cao của vị trí này, có thể kể đến là Ederson (Manchester City), Alisson (Liverpool), Manuel Neuer (Bayern Munich) và Marc-André ter Stegen (Barcelona).

Nhưng chiến thuật nào cũng sẽ có những nhược điểm riêng, và quá tin tưởng vào một thủ môn quét cũng chưa chắc đã là một phương án hay.

Hãy nhìn vào Onana và quãng thời gian cầu thủ này chật vật ở Manchester United. Ten Hag yêu thích việc có một thủ môn chơi chân tốt để giúp phát triển bóng, và ông thẳng tay loại De Gea để đem Onana về Nhà hát của những giấc mơ. Hiện tại, quyết định này đang chưa đem lại hiệu quả.

Những đường chuyền dài của Onana chưa thật sự chính xác như cái cách mà người hâm mộ kỳ vọng – nhưng đó chưa phải là vấn đề lớn nhất của thủ thành này. Anh thường xuyên đối mặt với tiền đạo đối phương trong những tư thế không hề thuận lợi – phần lớn tới từ việc thủ môn này dâng cao để phối hợp với đồng đội. Việc đối mặt như vậy khiến phản xạ của Onana bị hạn chế đi khá nhiều, và việc bị thủng lưới liên tiếp là minh chứng rõ ràng nhất.

Đây là một điều bình thường với một đội bóng như MU – một đội bóng đang có mùa giải đầu tiên chuyển từ “thủ môn truyền thống” sang “thủ môn quét”.

Thậm chí, ở cả những đội bóng đã quen với lối chơi này, hiểm nguy vẫn luôn thường trực trước khung thành của họ. Trận cầu giữa Arsenal và Manchester City tại sân Emirates, sự do dự của David Raya gần như tặng Julian Álvarez một bàn thắng. Các tình huống như vậy trở nên ngày càng phổ biến và cảm giác là điều đó đã trở thành việc hết sức bình thường ở bóng đá hiện đại.

Nhưng đánh đổi những rủi ro như vậy, để có một thế trận tốt – liệu có hơp lý?

“Việc thủ môn của bạn di chuyển khỏi vị trí bảo vệ khung thành quen thuộc và đôi lúc tạo ra sai lầm cho đối thủ khai thác ở một vài trận đấu có còn quan trọng không? Khi mà nó có thể bù đắp bằng việc đem lại một lối chơi tổng thể tốt hơn cho cả đội bóng trong cả mùa giải?”

Đó là những gì mà Johan Cruyff đã phát biểu để bảo vệ Stanley Menzo – thủ môn có lối chơi dâng cao của Ajax vào cuối thập kỷ 80 – thời điểm mà khái niệm “thủ môn quét” vẫn còn là một điều gì đó lạ lẫm.